Bộ Công Thương vừa có Tờ trình số 6068/TTr-BCT ngày 5/9/2023 gửi Thủ tướng Chính phủ về việc xây dựng Đề án phát triển lưới điện thông minh tại Việt Nam giai đoạn 2023-2030, tầm nhìn 2045.
Tờ trình nêu rõ, ngày 17/4/2020, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 50/NQ-CP ban hành chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chíinh trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Thực hiện Chương trình hành động của Chính phủ tại Nghị quyết số 50/NQ-CP, Bộ Công Thương đã xây dựng và ban hành Quyết định số 2019/QĐ-BCT ngày 19/11/2020 về việc ban hành Kế hoạch hành động của Bộ Công Thương thực hiện Nghị quyết số 50/NQ-CP, trong đó có đề xuất nhiệm vụ xây dựng Đề án phát triển lưới điện thông minh tại Việt Nam giai đoạn 2023-2030, tầm nhìn 2045, trình Chính phủ.
Tạo hành lang pháp lý cho phát triển lưới điện thông minh
Trước đó, ngày 8/11/2012, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 1670-QĐ-TTg phê duyệt Đề án phát triển lưới điện thông minh tại Việt Nam. Quyết định xác định lộ trình phát triển lưới điện thông minh gồm 3 giai đoạn:
i) Giai đoạn 1 (2012-2016): triển khai các chương trình lưới điện thông minh nhằm tăng cường hiệu quả vận hành hệ thống điện, trong đó tập trung vào lưới điện truyền tải;
ii) Giai đoạn 2 (2017-2022): triển khai các chương trình lưới điện thông minh, phát triển mở rộng ứng dụng tập trung vào lưới điện phân phối;
iii) Giai đoạn 3 (từ sau 2022): định hướng một số chương trình lưới điện thông minh tiên tiến, trong đó mở rộng tới việc triển khai các ứng dụng ở cấp độ người dùng và các nền tảng tạo điều kiện cho khách hàng tham gia thị trường bán lẻ điện cạnh tranh, quản lý nguồn điện năng lượng tái tạo và nguồn điện phân tán với số lượng lớn, tích hợp các xu hướng mới của công nghệ như quản lý các hệ thống trạm sạc xe điện, lưu trữ năng lượng, lưới điện siêu nhỏ.
Bộ Công Thương nhận định, trong 10 năm triển khai Quyết định số 1670/QĐ-TTg, các đơn vị đã đạt một số thành tích trong công tác phát triển lưới điện thông minh tại Việt Nam.
Bộ Công Thương đã bổ sung một số quy định tạo cơ sở pháp lý cho phát triển lưới điện thông minh tại các Thông tư. Trong đó, bổ sung cơ sở pháp lý để hình thành các trung tâm điều khiển, trung tâm thao tác xa, trạm biến áp không người trực, thực hiện điều khiển, đóng cắt từ xa các thiết bị trong hệ thống điện. Bổ sung cơ sở pháp lý để cho phép áp dụng, thực hiện đo đếm và thu thập số liệu đo đếm từ xa, đồng bộ và thống nhất các quy định kỹ thuật và trách nhiệm của các bên đối với công tác đo đếm trong hệ thống điện quốc gia.
Ngoài ra, ban hành các quy định thực hiện các chương trình điều chỉnh phụ tải, nghiên cứu phụ tải điện. Các quy định liên quan đến công tác điều độ, thao tác và xử lý sự cố dối với trung tâm điều khiển, trạm biến áp không người trực, điều khiển tần số, dịch vụ phụ, công tác điều độ, vận hành và phân cấp điều độ đối với các nhà máy năng lượng tái tạo.
Cải thiện chỉ số tin cậy cung cấp điện rõ nét
Năm 2016, hệ thống SCADA/EMS mới trang bị cho Trung tâm Điều độ hệ thống điện quốc gia (A0) và các Trung tâm Điều độ hệ thống điện miền (A1, A2, A3) đã được hoàn thiện và đưa vào vận hành chính thức.
100% các Tổng công ty Điện lực, Công ty điện lực tỉnh đều đã trang bị hệ thống SCADA/DMS, miniSCADA để giám sát và điều khiển lưới điện.
Các đơn vị đã tích cực hoàn thiện việc kết nối tín hiệu SCADA của các nhà máy điện, trạm biến áp. Tính đến hết năm 2022, 100% các nhà máy điện có công suất trên 30MW, TBA 500kV, 220kV đã hoàn thành kết nối hệ thống SCADA; 97% TBA 110kV đã hoàn thành kết nối hệ thống SCADA.
100% công tơ đo đếm tại các TBA 500kV, 220kV, 110kV đã được đo đếm từ xa; 99% các nhà máy điện đã được đo đếm từ xa.
77% công tơ đo đếm cho khách hàng đã được đo đếm từ xa.
Về xây dựng và đưa vào vận hành các trung tâm điều khiển và trạm biến áp không người trực, 100% các TBA 110kV đã vận hành không người trực; 79% các TBA 220kV đã vận hành không người trực.
Các chỉ số độ tin cậy cung cấp điện đã có các tiến bộ vượt bậc, năm 2022 số lần mất điện trung bình (SAIFI) của khách hàng là 2,95 lần và thời gian mất điện trung bình (SAIDI) là 283 phút, đã đóng góp chung vào chỉ số tiếp cận điện năng giai đoạn 2013 - 2022 với kết quả tăng 129 bậc từ vị trí 156 lên vị trí 27 và đứng thứ 4 khu vực Đông Nam Á.
Tỷ lệ tổn thất điện năng của Việt Nam liên tục giảm từ mức 8,85% năm 2012 xuống còn 6,24% năm 2022.
Dù việc triển khai chương trình lưới diện thông minh đã đạt được một số kết quả tích cực, song Bộ Công Thương cũng thẳng thắn chỉ ra vẫn còn tồn tại một số khó khăn, thách thức trong triển khai lưới điện thông minh. Nhu cầu đầu tư để hiện đại hóa là rất lớn nhưng Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) và các đơn vị điện lực còn gặp nhiều khó khăn trong cân bằng tài chính và nguồn lực để đầu tư.
Các đơn vị còn chưa nhận thức đầy đủ lợi ích của các chương trình phát triển lưới điện thông minh, việc nghiên cứu, triển khai các chương trình truyền thông, phổ biến biến kiến thức về lưới điện thông minh còn hạn chế.
Các công nghệ lưới diện thông minh là các công nghệ mới, hiện đại do đó việc triển khai cần chứng minh hiệu quả, sự an toàn và sửa đổi các quy định pháp luật nhằm đảm bảo sự đồng bộ cần nhiều thời gian để hoàn thiện.
Hướng đến nâng cao chất lượng điện năng
Do đó, đối với Đề án phát triển lưới điện thông minh tại Việt Nam giai đoạn 2023-2030, tầm nhìn 2045, Bộ Công Thương xác định quan điểm là phát triển hạ tầng lưới điện thông minh, hiện đại, đáp ứng quá trình chuyển dịch năng lượng, bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng quốc gia. Nghiên cứu nắm bắt, làm chủ các công nghệ về lưới điện thông minh, bảo đảm đáp ứng yêu cầu áp dụng công nghệ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Mục tiêu tổng quát của Đề án là nâng cấp, xây dựng lưới điện truyền tải, phân phối điện tiên tiến, phát triển lưới điện thông minh với công nghệ hiện đại nhằm nâng cao chất lượng điện năng, độ tin cậy cung cấp điện; góp phần trong công tác quản lý nhu cầu điện, khuyến khích sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả; tạo điều kiện nâng cao năng suất lao động, giảm nhu cầu đầu tư vào phát triển nguồn và lưới điện; tăng cường khai thác hợp lý các nguồn tài nguyên năng lượng, đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế - xã hội bền vững.
Đầu tư hiện đại hoá ngành điện từ khâu sản xuất, truyền tải đến phân phối đáp ứng yêu cầu phát triển của thị trường điện, có khả năng tích hợp quy mô lớn nguồn năng lượng tái tạo; nâng cao khả năng bảo đảm an ninh mạng lưới điện và chất lượng dịch vụ điện. Tích cực thực hiện các chương trình quản lý nhu cầu điện và điều chỉnh phụ tải, giảm thiểu tối đa tổn thất điện năng. Hiện đại hoá hệ thống điều độ, từng bước triển khai áp dụng những công nghệ giám sát kỹ thuật tự động, thông minh; nghiên cứu ứng dụng truyền tải siêu cao áp, truyền tải một chiều trong ngành điện.
Đến năm 2030, 100% trạm biến áp 110 kV, 220 kV vận hành không người trực
Đề án đặt mục tiêu cụ thể, đến năm 2030, phấn đấu giảm tổn thất điện năng toàn hệ thống điện về mức dưới 6%. Điều khiển từ xa, không người trực vận hành đối với 100% các trạm biến áp 110 kV, 220 kV.
Phấn đấu 10% đơn vị quản lý lưới điện (Đơn vị truyền tải điện và Đơn vị phân phối điện) phát triển hệ thống thông tin địa lý (GIS) để thực hiện quản lý lưới điện trên nền tảng bản đồ địa lý.
Xây dựng hoàn thiện hệ thống SCADA/EMS giai đoạn 4 của Trung tâm Điều độ hệ thống điện quốc gia, đáp ứng việc điều độ, vận hành hệ thống điện và thị trường điện, có khả năng tích hợp lượng lớn nguồn năng lượng tái tạo.
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống Quản lý nguồn phân tán tại Điều độ Quốc gia, Điều độ miền cũng như các Công ty phân phối.
Hoàn thiện các hệ thống trung tâm điều khiển, trung tâm vận hành, giám sát lưới điện truyền tải và phân phối.
Hoàn thành lắp đặt 95% công tơ đo xa sử dụng trên lưới điện và cho khách hàng sử dụng diện. Từng bước triển khai hệ thống cơ sở hạ tầng đo đếm tiên tiến (AMI - Advanced Metering Infrastructure) cho các khách hàng phù hợp với yêu cầu quản lý, kinh doanh, dịch vụ khách hàng và đảm bảo hiệu quả kinh tế.
Triển khai các hình thức hỗ trợ khách hàng trên các nền tảng số, phấn đấu 95% các yêu cầu dịch vụ điện được thực hiện thông qua các nền tảng số.
Nghiên cứu, triển khai các hệ thống lưới điện siêu nhỏ (Microgrid) có tích hợp hệ thống pin lưu trữ, trụ sạc xe điện tại các vị trí phụ tải quan trọng, các hệ thống điều khiển và giám sát trạm sạc xe điện thông minh. Nghiên cứu mô hình lưu trữ năng lượng quy mô nhỏ nhằm cân bằng cung cầu ngay ở cấp độ người dùng.
Triển khai đánh giá bộ chỉ số lưới điện thông minh theo chuẩn quốc tế.
Phấn đấu đạt các chỉ tiêu về năng suất lao động và độ tin cậy cung cấp điện theo kế hoạch được duyệt của từng giai đoạn.
Từng bước ứng dụng trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, internet vạn vật (IoT) trong giám sát, dự báo năng lượng tiêu thụ, dự báo phụ tải, dự báo sự cố của thiết bị và hệ thống, đánh giá tình trạng thiết bị và vận hành hệ thống điện; quản lý tài sản, chăm sóc khách hàng và an ninh bảo mật.
Triển khai đầy đủ các giải pháp đảm bảo an toàn, an ninh thông tin cho hệ thống điện theo quy định pháp luật hiện hành.
Đến năm 2045, tỷ lệ tổn thất điện năng dưới 6%
Đề án cũng nêu rõ mục tiêu, đến năm 2045, duy trì giảm tổn thất điện năng toàn hệ thống điện về mức dưới 6% và tiếp tục phấn đấu mức ngang bằng với các nước tiên tiến trong khu vực ASEAN.
Phấn đấu 50% các trạm biến áp trung áp được giám sát vận hành từ xa.
Phấn đấu 50% đơn vị quản lý lưới điện (Đơn vị truyền tải điện và Đơn vị phân phối điện) phát triển hệ thống thông tin địa lý (GIS).
Hoàn thiện mô hình điều độ hệ thống điện Việt Nam đồng bộ với đầu tư nâng cấp hệ thống SCADA/DMS/EMS đảm bảo khả năng điều độ, vận hành an toàn hệ thống diện trong quá trình chuyển dịch năng lượng.
Triển khai đánh giá, hoàn thiện và nhân rộng hệ thống AMI cho các khách hàng phù hợp với yêu cầu quản lý, kinh doanh, dịch vụ khách hàng và đảm bảo hiệu quả kinh tế.
Tiếp tục triển khai các hình thức hỗ trợ khách hàng trên các nền tảng số, phấn đấu 98% các yêu cầu dịch vụ điện được thực hiện thông qua các nền tảng
số.
Triển khai mở rộng các hệ thống Microgrid, hệ thống điều khiển và giám sát trạm sạc xe điện thông minh, mô hình lưu trữ năng lượng quy mô nhỏ ở cấp độ người dùng.
Tiếp tục tích hợp các nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng phân tán; Nghiên cứu triển khai các mô hình nhà máy điện ảo, các mô hình quản lý, vận hành mới đáp ứng quá trình chuyển dịch năng lượng, tiếp tục triển khai quản lý nhu cầu phụ tải và điều chỉnh phụ tải.
Phấn đấu đạt các chỉ tiêu về năng suất lao động và độ tin cậy cung cấp điện theo kế hoạch được duyệt của từng giai đoạn.
Phát triển mạnh các ứng dụng trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, IoT trong giám sát, dự báo năng lượng tiêu thụ, dự báo phụ tải, dự báo sự cố của thiết bị và hệ thống, đánh giá tình trạng thiết bị và vận hành hệ thống điện; quản lý tài sản, chăm sóc khách hàng và an ninh bảo mật. Triển khai đầy đủ các giải pháp đảm bảo an toàn, an ninh thông tin cho hệ thống điện.
Để có định hướng cho giai đoạn tiếp theo của lộ trình phát triển lưới diện thông minh, đồng thời làm cơ sở cho Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) và đơn vị liên quan triển khai chương trình phát triển lưới điện thông minh, Bộ Công Thương kiến nghị Thủ tướng Chính phủ xem xét, phê duyệt Đề án phát triển lưới điện thông minh tại Việt Nam giai đoạn 2023-2030, tầm nhìn đến 2045.