Lạm phát và nợ xấu tiếp tục là gánh nặng cho nền kinh tế năm Rồng

Ước tính tổng giá trị trái phiếu doanh nghiệp chậm các nghĩa vụ thanh toán vào khoảng 192.000 tỷ đồng, chiếm gần 19% dư nợ trái phiếu doanh nghiệp hiện nay, trong đó nhóm ngành bất động sản tiếp tục chiếm tỷ trọng lớn nhất khoảng 70% giá trị chậm trả...

Lạm phát và nợ xấu tiếp tục là gánh nặng cho nền kinh tế năm Rồng
Lạm phát và nợ xấu tiếp tục là gánh nặng cho nền kinh tế năm Rồng

Trong báo cáo Chiến lược đầu tư 2024 mà Công ty Chứng khoán MB (MBS Research) vừa công bố, các chuyên gia phân tích đánh giá năm 2024 nền kinh tế tiếp tục đối mặt với nhiều thách thức như lạm phát có khả năng tăng cao; thị trường bất động sản tiếp tục trì trệ sẽ tạo áp lực lớn lên trái phiếu doanh nghiệp và nợ xấu năm 2024…

LẠM PHÁT VẪN TIỀM ẨN RỦI RO TĂNG MẠNH

CPI tháng 11/2023 tăng 3,5% so với cùng kỳ và bình quân 11 tháng tăng 3,2% - duy trì dưới mức mục tiêu 4,5% của Chính phủ. Tốc độ tăng CPI đã giảm từ tháng 10 nhưng MBS Research cho rằng lạm phát vẫn chịu áp lực vào tháng cuối của năm bởi những yếu tố như giá máy bay và chi phí đi lại tăng cao do yếu tố mùa vụ và giá gạo tăng theo giá xuất khẩu và dự kiến đẩy CPI trung bình cả năm 2023 sẽ dao động ở mức 3,4%.

“CPI bình quân 2024 sẽ dao động ở động ở mức 3,5% - 3,6%, mức lạm phát vẫn duy trì nằm trong kế hoạch đề ra của chính phủ là 4% - 4,5% do cầu trong nước vẫn còn thấp”, MBS Research dự kiến.

Các chuyên gia của MBS Research cũng cho hay lạm phát trong năm sau sẽ chịu rủi ro bởi các yếu tố sau đây:

Thứ nhất, giá thép xây dựng nội địa sẽ phục hồi lên mức 15 triệu VND/tấn, tăng 8% trong năm 2024 nhờ đà tăng giá thép thế giới và nhu cầu ấm lên ở thị trường Việt Nam. Đồng thời các chính sách hỗ trợ sẽ thúc đẩy phục hồi thị trường bất động sản từ giữa năm 2024, nguồn cung căn hộ dự kiến tăng trưởng 20% so với cùng kỳ (theo dự báo của CBRE) sẽ đẩy mạnh nhu cầu và tác động tích cực đến giá thép nội địa và tác động đến chỉ số giá của nhóm vật liệu xây dựng.

Lạm phát và nợ xấu tiếp tục là gánh nặng cho nền kinh tế năm Rồng 2
Nguồn: MBS Research

Thứ hai, giá điện đã tăng lần thứ hai trong năm từ ngày 9/11 từ 1.920,37 đồng lên 2.006,79 đồng/kWh (chưa gồm thuế VAT), tương ứng tăng 4,5% sẽ đẩy chỉ số giá tiêu dùng trong các tháng đầu năm 2024 và tác động đến các hàng hóa, sản phẩm và các dịch vụ liên đới và đẩy chi tiêu hàng ngày vọt lên.

Thứ ba, thương mại của Việt Nam được hưởng lợi từ giá gạo sẽ tăng trong bối cảnh nhu cầu tại các thị trường châu Á và châu Phi tăng lên, giá cả quốc tế đã đẩy giá hàng hóa thiết yếu trong nước tăng cao. Giá gạo toàn cầu trung bình năm 2023 cao hơn 28% so với năm 2022 và dự kiến sẽ tăng thêm 6% vào năm 2024 (theo dự báo của WB) tiếp tục tác động đến giá lương thực thực phẩm.

Cuối cùng, giá dầu cũng là một yếu tố đáng chú ý trong năm sau trong bối cảnh các xung đột quốc tế có thể kéo dài. Tuy nhiên, triển vọng giá dầu chưa thực sự rõ ràng vì các cam kết cắt giảm từ OPEC+ hiện tại chỉ chắc chắn kéo dài đến hết quý 1/2024, sản lượng từ các quốc gia ngoài OPEC+ liên tục gia tăng trong bối cảnh nhu cầu ảm đạm do ảnh hưởng từ nền kinh tế.

“Chúng tôi dự báo giá dầu trung bình năm 2024 sẽ trong khoảng 83 - 85 USD/thùng, tức là tăng nhẹ khoảng 1,2% - 3,6% so với giá dầu trung bình năm 2023”, theo MBS Research.

TRÁI PHIẾU VÀ NỢ XẤU VẪN “GỌI TÊN” BẤT ĐỘNG SẢN

Thị trường bất động sản dân cư vẫn chưa cải thiện đáng kể trong quý cuối năm. Tỷ trọng hàng tồn kho và người mua trả tiền trước trên tổng tài sản của các doanh nghiệp cũng đang trong xu hướng giảm do thị trường bất động sản ảm đạm.

Lạm phát và nợ xấu tiếp tục là gánh nặng cho nền kinh tế năm Rồng 3
Nguồn: MBS Research

Giá trị hàng tồn kho cuối quý 3/2023 của các doanh nghiệp bất động sản niêm yết đạt 453,4 nghìn tỷ đồng gần như không có thay đổi so với đầu năm cho thấy các dự án bất động sản đang tạm dừng triển khai. Điều này sẽ tác động tiêu cực đến kết quả kinh doanh và nguồn vốn của doanh nghiệp bị “đóng băng” tại các dự án dở dang. Hơn nữa, người mua trả tiền trước giảm 5% so với cùng kỳ cho thấy các doanh nghiệp vẫn còn gặp khó khăn trong mở bán sản phẩm.

Báo cáo từ MBS cũng cho hay thị trường bất động sản ảm đạm kéo dài sẽ gây áp lực lên thị trường trái phiếu cũng như nợ xấu của hệ thống ngân hàng. Ước tính giá trị trái phiếu bất động sản đáo hạn trong quý 4/2023 và năm 2024 lần lượt là 12.172 tỷ đồng và 125.305 tỷ đồng, giảm 29% và 5% so với trước khi mua lại.

"Chúng tôi ước tính tổng giá trị trái phiếu doanh nghiệp chậm các nghĩa vụ thanh toán vào khoảng 192.000 tỷ đồng, chiếm gần 19% dư nợ trái phiếu doanh nghiệp hiện nay của toàn thị trường, trong đó nhóm ngành bất động sản tiếp tục chiếm tỷ trọng lớn nhất khoảng 70% giá trị chậm trả", nhóm chuyên gia phân tích từ MBS cho biết.

Lạm phát và nợ xấu tiếp tục là gánh nặng cho nền kinh tế năm Rồng 4
Nguồn: MBS Research

Bên cạnh đó, tỷ lệ nợ xấu (NPL) của hệ thống đang có xu hướng tăng lên đa phần rủi ro đến từ khu vực bất động sản. Tỷ lệ nợ xấu toàn ngành tại quý 3/2023 đạt 2,2%, tăng 64 điểm cơ bản so với 2022 và là mức cao nhất từ năm 2015.

Hầu như tất cả các ngân hàng đều tiếp tục ghi nhận tỷ lệ nợ xấu gia tăng tại quý 3/2023 so với đầu năm và các quý liền trước. Thông tư 02 của Ngân hàng Nhà nước về cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giãn nợ đã giúp tỷ lệ nợ xấu và sự sụt giảm tỷ lệ dự phòng tổn thất cho vay giảm tốc.

Lạm phát và nợ xấu tiếp tục là gánh nặng cho nền kinh tế năm Rồng 5
Nguồn: MBS Research

Tỷ lệ nợ xấu toàn ngành tăng mạnh từ 1,4% cuối năm 2022 lên 2,1% cuối quý 2/2023 nhưng chỉ tăng 10 điểm cơ bản trong quý 3/2023. Tỷ lệ dự phòng tổn thất cho vay giảm hơn 21% trong 6 tháng đầu năm 2023 nhưng chỉ giảm 5,8% trong quý 3/2023.

Hiện gần 70% tài sản thế chấp tại hệ thống ngân hàng là tài sản bất động sản. Vì vậy, nếu thị trường bất động sản trầm lắng kéo dài hơn, các ngành kinh tế khác chưa kịp lấy lại đà phục hồi, áp lực nợ xấu ngân hàng gia tăng sẽ tạo điểm nghẽn cho tăng trưởng kinh tế.

Lãi suất vẫn có thể giảm thêm?

Lãi suất vẫn có thể giảm thêm?

Sau cuộc họp gần nhất của FED, một số ngân hàng trung ương trên thế giới dự báo sẽ bắt đầu giảm lãi suất sau giai đoạn dài tăng mạnh. Trong khi đó, dư địa giảm lãi suất của Việt Nam đã bị thu hẹp khi NHNN đã có 4 lần cắt giảm lãi suất trong năm nay.

Lãi suất thấp kỷ lục sẽ kéo dài đến bao giờ?

Lãi suất thấp kỷ lục sẽ kéo dài đến bao giờ?

Sang đến năm 2024, VIS Rating kỳ vọng lãi suất huy động sẽ vẫn ở mức thấp, thúc đẩy mặt bằng lãi suất cho vay thấp hơn, giảm chi phí huy động vốn và giảm bớt gánh nặng trả nợ của doanh nghiệp và tổ chức phát hành trái phiếu...

Xem tiếp các bài khác

Địa chỉ: Số 3, ngõ 20 Nghĩa Đô, Cầu Giấy, Hà Nội.

Truyền thông - Quảng cáo: 0913240779

Email: [email protected]

Chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Bà Phạm Thị Hà

Giấy phép thiết lập trang thông tin điện tử trên mạng số 3708/GP-TTĐT do Sở Thông tin và Truyền thông Hà Nội cấp ngày 05/12/2022

Ghi rõ nguồn "Vietone.vn" khi phát hành từ Website này.