Việt Nam sở hữu đường bờ biển dài cung cấp vốn tự nhiên lớn, nên việc quản lý bền vững các khu vực biển và ven biển là công cụ quan trọng trong phát triển kinh tế biển xanh, thúc đẩy phát triển các ngành mới giúp tăng thu nhập và tạo công ăn việc làm.
Đặc biệt, quy hoạch vùng bờ và quy hoạch không gian biển mở ra cơ hội khai thác tiềm năng to lớn về năng lượng gió biển như một nguồn năng lượng tái tạo quan trọng, giúp Việt Nam đạt mục tiêu về khí hậu.
Nhận định trên được ông Patrick Haverman, Phó trưởng đại diện thường trú UNDP tại Việt Nam, đưa ra tại hội thảo về Quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045 (Quy hoạch vùng bờ) mới đây.
Ông cũng đánh giá thêm rằng, quy hoạch vùng bờ cũng sẽ giúp đảm bảo phát triển tối ưu và hài hòa giữa các ngành trong khai thác, sử dụng tài nguyên ven biển của Việt Nam, cũng như đảm bảo bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học, giữ gìn các giá trị văn hóa, lịch sử, nâng cao khả năng chống chịu với biến đổi khí hậu.
Phát biểu khai mạc hội thảo, Phó đại sứ Na Uy – bà Mette Moglestue cho biết, kinh nghiệm quản lý tích hợp biển và đại dương của Na Uy cho thấy, việc phát triển một nền kinh tế đại dương mạnh mẽ, đồng thời với việc đảm bảo môi trường biển sạch và lành mạnh, là điều hoàn toàn có thể.
Theo đó, một quy hoạch không gian biển có chất lượng là chìa khóa thành công.
Na Uy là một trong những quốc gia đầu tiên xây dựng các kế hoạch quản lý vùng bờ và đại dương. Các kế hoạch này được xây dựng và hoàn thiện trong nhiều năm, vừa làm vừa rút kinh nghiệm.
Những vùng biển của Na Uy hiện nằm trong số những vùng biển được quản lý tốt nhất thế giới, với giá trị được tạo ra ở mức cao. Cụ thể, đại dương đóng góp 70% trong tổng doanh thu xuất khẩu của Na Uy.
Tại Việt Nam, đường bờ biển dài hơn 3.260 km cung cấp vốn tự nhiên lớn cho phát triển kinh tế biển và có nhiều tiềm năng điện gió ven bờ và ngoài khơi. Nếu được phát triển hợp lý, khu vực địa lý này sẽ góp phần đảm bảo an ninh năng lượng, và giúp Việt Nam đạt được các cam kết trung hòa carbon vào 2050.
Nhằm phát huy tiềm năng to lớn này, Việt Nam đã ban hành Nghị quyết số 36/NQ-TW của Trung ương năm 2018 về chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045, trong đó, đặt ra giải pháp quan trọng là xây dựng Quy hoạch không gian biển quốc gia, và Quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ.
Tại hội thảo, Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và môi trường Lê Minh Ngân, cho biết là một quốc gia ven biển có bờ biển dài, nhiều đảo, đứng trước những thách thức về ô nhiễm môi trường, sự suy giảm nguồn lợi và tài nguyên biển và tác động của biến đổi khí hậu, trong những năm qua, Việt Nam đã tích cực xây dựng và triển khai thực hiện chính sách, pháp luật phục vụ công tác quản lý nhà nước về biển và hải đảo và tăng cường hợp tác quốc tế.
Ông đánh giá quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045 là loại quy hoạch đa ngành, khó và phức tạp, lần đầu tiên được lập ở Việt Nam theo cách tiếp cận không gian, tổng hợp.
Cụ thể, theo quy định, phạm vi của Quy hoạch vùng bờ bao gồm vùng biển ven bờ và vùng đất ven biển theo một số tiêu chí.
Cùng với đó, mục tiêu của quy hoạch là nhằm phát triển bền vững vùng bờ dựa trên sự nâng cao hiệu quả quản lý và khai thác, sử dụng tài nguyên theo cách tiếp cận quản lý tổng hợp, chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu và nước biển dâng.
Bên cạnh đó, cải thiện sinh kế và mức sống của cộng đồng dân cư ven biển gắn với bảo tồn và phát triển giá trị tự nhiên, sinh thái, văn hóa; giữ vững trật tự xã hội và bảo đảm quốc phòng an ninh.
Các mục tiêu cụ thể về kinh tế bao gồm tối đa hóa lợi ích và hạn chế đến mức thấp nhất các mâu thuẫn trong việc khai thác, sử dụng tài nguyên vùng bờ; phân bổ hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả các nguồn tài nguyên vùng bờ cho các ngành, lĩnh vực và các địa phương có biển trong phát triển kinh tế - xã hội; tạo nhiều sinh kế và nâng cao mức sống cho cộng đồng dân cư ven biển.
Đáng chú ý, đặt mục tiêu phát triển thành công, đột phá các ngành kinh tế biển ở vùng bờ theo hướng hiện đại, ứng dụng công nghệ số, kỹ thuật tiên tiến, thân thiện với môi trường, góp phần vào việc tăng trưởng kinh tế của 28 tỉnh, thành phố ven biển đạt trên 7,5%/năm, hướng đến mục tiêu đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.
Về môi trường, quản lý, mục tiêu cụ thể là bảo vệ hiệu quả các hệ sinh thái hiện hữu ở vùng bờ; phục hồi, tăng diện tích các khu bảo tồn trên các vùng đất ven biển và vùng biển ven bờ thuộc vùng bờ, để đóng góp vào mục tiêu đạt tối thiểu 6% diện tích các khu bảo tồn biển và ven biển.
Cùng với đó, quản lý hiệu quả các nguồn gây ô nhiễm từ đất liền, ô nhiễm rác thải nhựa ở vùng bờ, góp phần giảm 75% rác thải nhựa trên biển, 100% các khu bảo tồn biển không còn rác thải nhựa trong phạm vi vùng bờ, 100% chất thải nguy hại, chất thải rắn sinh hoạt, chất thải nhựa ở vùng bờ được thu gom và xử lý đạt quy chuẩn môi trường.