Cần tận dụng lợi thế từ các FTA để đưa hàng Việt vươn lên tầm cao mới.
Hãy nhìn lại quá khứ mới chỉ hai ba chục năm trước đây thôi, khi tất cả còn chưa có gì, để thấy lợi thế hôm nay mà tự tin đi xa, đi nhanh.
Trong nhiều cuộc trao đổi cũng như lắng nghe câu chuyện về các doanh nhân Việt Nam, tôi vẫn giữ mãi ấn tượng về hai doanh nhân và những sản phẩm cao cấp của họ. Đó là ông Nguyễn Trọng Phi, Chủ tịch Giovani Group và bà Lưu Nga, nhà sáng lập của thương hiệu thời trang Elise.
Trong một lần gặp vào những tháng phong tỏa gắt gao cả ở đường biên và trên toàn quốc năm 2021, ông Nguyễn Trọng Phi cho biết công ty đã thay đổi cách tiếp cận khách hàng, thay đổi nhiều công đoạn trong sản xuất và kinh doanh để phù hợp với bối cảnh phong tỏa. Các khách hàng từ nhiều nơi trên thế giới có thể đặt may trực tuyến, ở đầu này, nhiều công đoạn như đo, cắt, may, đóng gói, vận chuyển cho khách hàng được xử lý bằng robot. Cách thức đó đã giúp tiếp cận thêm rất nhiều khách hàng, đáp ứng những nhu cầu cá nhân đa dạng, riêng biệt mà trước đây không thể làm được.
Ông cho biết thêm, sau 16 năm kể từ khi thành lập, Giovani tới nay đã dần hoàn thiện chuỗi cung ứng khép kín với sự hội tụ những gì được gọi là tinh hoa nhất của ngành công nghiệp dệt may, da giày toàn cầu. Giovani đã hợp tác với những nhà thiết kế lừng danh, sử dụng nguyên liệu thượng phẩm (bông Mako, bông Supima là tinh hoa của vải, chiếm chỉ 1,5% tổng sản lượng bông toàn cầu với số lượng hãng thời trang sử dụng bông này đếm trên đầu ngón tay, trong đó có Hugo Boss, có Giovani).
Đối với các sản phẩm từ da, Giovani tiên phong trong ngành thời trang khi sử dụng cùng một nguồn da tái tạo với các hãng lớn như Chanel, Gucci, Salvatore Ferragamo... góp phần vào một nền sản xuất xanh, tiêu dùng xanh, một nền kinh tế tuần hoàn.
Còn bà Lưu Nga với thương hiệu Elise, cho biết đây là thương hiệu thời trang hàng đầu Việt Nam với hơn 100 cửa hàng trên toàn quốc, dẫn đầu thị trường thời trang về quy mô và tốc độ phát triển. Elise sở hữu và làm thỏa mãn hàng triệu khách hàng trung thành, hàng năm cho ra thị trường hơn 2000 mẫu thiết kế tiên phong, sáng tạo và độc đáo, luôn luôn dẫn đầu thị trường về xu hướng và phong cách hiện đại trẻ trung.
Vươn lên trên chuỗi giá trị
Các ngành nghề, lĩnh vực được lựa chọn trở thành “ưu tiên”, “mũi nhọn” nhiều đến mức nhiều người nói đùa rằng “chiến lược phát triển công nghiệp của ta trông như quả mít, nhìn đâu cũng thấy mũi nhọn”.
Nghị quyết 23-NQ/TW năm 2018 về định hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 thừa nhận thực trạng đáng buồn: Nền công nghiệp nước ta thời gian qua phát triển chưa đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chủ yếu phát triển theo mục tiêu ngắn hạn, thiếu tính bền vững; nội lực của nền công nghiệp còn yếu, phụ thuộc nhiều vào các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Trong khi đó, trình độ công nghệ còn lạc hậu, chậm được đổi mới; chất lượng sản phẩm, năng suất lao động ngành công nghiệp còn thấp; phát triển công nghiệp chưa gắn kết chặt chẽ với các ngành kinh tế khác; còn quá chú trọng vào lao động giá rẻ, chưa tận dụng tốt được lợi thế trong thời kỳ cơ cấu dân số vàng...
Nêu lại một vài nghị quyết trên để thấy một điều, nền sản xuất mà chúng ta thiết kế ra trông như thế nào hôm nay? Đừng biện minh cho việc đến cái tăm cũng phải nhập khẩu về dùng!.
Phụ thuộc quá lớn vào FDI
Nói về sự phát triển không thể không nói đến khu vực FDI. Theo Báo cáo Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 2021, vai trò của FDI trong tăng trưởng GDP của Việt Nam ngày càng quan trọng.
Tỷ trọng của khu vực FDI trong GDP tăng dần từ 2,1% năm 1989 lên 22,3% năm 2020. Giai đoạn 2016 – 2020, tỷ trọng FDI trong tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội đạt 23,1%. Riêng trong giai đoạn 2011–2020, khu vực kinh tế này chiếm bình quân 28% tổng thu NSNN hàng năm.
Như vậy, tỷ trọng đóng góp vào GDP, tỷ trọng trong kim ngạch xuất khẩu và đóng góp cho ngân sách của khu vực FDI ngày càng lớn và thậm chí vượt trội, lấn át các khu vực kinh tế khác.
Trong khi đó, phần lớn FDI, theo nghiên cứu của WB, tập trung vào các ngành thuộc nhóm khai thác thị trường, hay các ngành thâm dụng lao động, giá trị gia tăng thấp, như dệt may, da giày, sản phẩm từ cao su, nhựa, thực phẩm đồ uống, nội thất và gỗ, giấy, điện tử... Rất ít doanh nghiệp FDI cho rằng, tay nghề lao động cao hay chuỗi cung ứng trong nước có đủ năng lực cạnh tranh là thế mạnh của Việt Nam.
Điều này có nghĩa là gì nếu không phải thực tế: Người Việt Nam chúng ta vẫn chỉ làm thuê, làm mướn là chính bằng chân tay trong các dây chuyền, thay vì ngoi lên được các công đoạn trên của chuỗi giá trị. Liệu sau này, khi giá nhân công đắt đỏ lên, các đại dự án FDI có rời bỏ chúng ta để sang quốc gia khác có giá lao động rẻ hơn, giống như cách họ đã vào với chúng ta từ các quốc gia khác?
Ông Trần Khắc Tâm
Nguy cơ sập bẫy
Theo Bộ Công Thương, Việt Nam hiện nay đang ở bước chuyển tiếp từ giai đoạn 1 sang giai đoạn 2 trong quá trình phát triển công nghiệp, trong đó, mức độ hấp thụ công nghệ và trình độ quản lý sản xuất vẫn đang ở mức “rất hạn chế”.
Hay nói cách khác, nền kinh tế này mới vượt qua giai đoạn phát triển 0 (Độc canh, nông nghiệp tự cung tự cấp, phụ thuộc vào viện trợ) và đang ở giai đoạn 1 (Sản xuất đơn giản dưới sự hướng dẫn, điều phối của nước ngoài) để chuyển sang giai đoạn phát triển 2 (phát triển công nghiệp hỗ trợ vẫn dưới sự hướng dẫn của nước ngoài) trong quá trình phát triển 5 giai đoạn.
Đa số các quốc gia châu Á, đặc biệt là ASEAN, đã mắc “trần thủy tinh”, hay bẫy thu nhập trung bình để vươn lên giai đoạn 3 và 4. Chỉ có Hàn Quốc, Đài Loan (Trung Quốc) vượt qua giai đoạn 2 lên giai đoạn phát triển 3 (làm chủ và quản lý công nghệ, sản xuất hàng hóa chất lượng cao) và Hoa Kỳ, Nhật Bản, EU vươn lên giai đoạn phát triển thứ 4 (có đủ khả năng trong cải tiến và thiết kế sản phẩm như người dẫn đầu toàn cầu).
Việt Nam đã không tận dụng tốt được lợi thế đang trong giai đoạn dân số vàng và lợi thế là nước đi sau trong công nghiệp hóa, hiện đang đối diện với nguy cơ giải công nghiệp hóa quá sớm và ở vị trí bất lợi trước những thay đổi của Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Theo Báo cáo về Mức độ sẵn sàng cho tương lai ngành sản xuất năm 2018 của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF), Việt Nam xếp thứ 48/100 về Cấu trúc sản xuất và thứ 53/100 về Yếu tố dẫn dắt sản xuất, thuộc nhóm Sơ khai được cho là bất lợi trước những thay đổi của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Trong khu vực ASEAN, Campuchia, Indonesia cũng được xếp vào nhóm Sơ khai như chúng ta.
Quá trình chuyển đổi hiện nay diễn ra tương đối chậm chạp, mối liên kết giữa các doanh nghiệp FDI có trình độ công nghệ và các doanh nghiệp trong nước lỏng lẻo, chưa tạo ra được sự lan tỏa và tận dụng tối đa hiệu quả của FDI đầu tư tại Việt Nam. Một trong những nguyên nhân chính là do năng lực các doanh nghiệp trong nước quá hạn chế, chưa đủ sức để tiếp cận và tiếp nhận sự lan tỏa của khu vực FDI.
Tương lai vẫn rộng mở
Dù thực tế là vậy, nhưng tương lai thì sao? Điều này, thị trường và sức mua sẽ quyết định. Theo Ngân hàng Thế giới, tầng lớp trung lưu ở Việt Nam gần đây tăng thêm 1,5 triệu người mỗi năm, và có gần 1/4 dân số Việt Nam đạt ngưỡng tầng lớp trung lưu. 3/4 dân số đất nước hiện nay ở dưới tuổi 35 cho thấy sức mua của người dân là rất dồi dào. Đây là điều mà bất kỳ doanh nghiệp hay nhãn hàng nào đều mong muốn.
Bên cạnh đó, hơn 15 FTA là một lợi thế (tất nhiên cũng nhiều thách thức khi đã mở toang cửa), mà ít nền kinh tế nào có được.
Hãy nhìn lại quá khứ mới chỉ hai ba chục năm trước đây thôi, khi tất cả còn chưa có gì để thấy lợi thế hôm nay.
Những lợi thế đó phải được tận dụng hiệu quả để doanh nghiệp Việt Nam chiếm lĩnh thị trường này và vươn lên tầm cao của chuỗi sản xuất, bằng cách kết nối với nhau, hợp tác với nhau để đi xa hơn, bền vững hơn.
Ông Trần Khắc Tâm - Phó Chủ tịch VACOD
Đại biểu quốc hội khoá XIII
Tổng Giám đốc Công ty TNHH Trần Liên Hưng, tỉnh Sóc Trăng
Chủ tịch Hiệp hội doanh nghiệp tỉnh Sóc Trăng